Dòng sự kiện:

Kỳ án “cái bang” trộm tiền để nuôi đứa trẻ bị bỏ rơi

21:20 24/10/2015
Bốn năm ròng một người ăn xin dành dụm tiền nuôi một cô bé ăn học. Nhưng rồi vì túng bấn, ông đã ăn trộm để có tiền lo cho cô bé. Trùng hợp, người bị hại chính là mẹ của cô bé kia và từ đây, câu chuyện đầy ân tình diễn ra tại một huyện nghèo ven sông Chu (tỉnh Thanh Hóa) được biết đến.
“Có người dưng nào li tt vi mình?”

Vụ án diễn ra đã khá lâu, vị thẩm phán chủ tọa phiên tòa giờ chỉ còn nhớ mỗi tên bị cáo nhưng tình tiết trong vụ án thì ông không quên bởi đó là một câu chuyện cảm động, kết cục có hậu.

Vị thẩm phán kể, bị cáo ấy tên Thung, khoảng 60 tuổi, dị tật bên chân trái, không nghề nghiệp ổn định, không gia đình con cái nên khi tuổi già sức yếu, ông hay ăn xin ở đầu ngõ chợ, âu cũng là một cái “thú” nhìn người qua người lại cho qua ngày đoạn tháng.

Năm 2004, khi đang ăn xin trong chợ, ông nhìn thấy một phụ nữ từ tiệm vàng bước ra nên theo dõi. Lúc người phụ nữ mua rau, ông lén lấy trộm của nạn nhân hơn 2 triệu đồng. Định tẩu thoát nhưng ông vướng vào một em bé vấp ngã nên bị phát hiện và bắt giữ. Sau một tuần mòn mỏi bị tạm giam, ông được hai người đến bảo lãnh.

Ảnh minh họa

Thật ngạc nhiên, người bảo lãnh lại là nạn nhân bị giật tiền và con gái bà. Cũng từ đó, người bị hại đã kể, ông Thung chính là ân nhân của con gái bà, gia đình bà, chính là người bốn năm ròng lo cho con gái bà ăn học nên người, mà ngay như người mẹ đẻ là bà cũng không thể làm được.

Ông Thung không vợ con, thuê phòng trọ sống một mình. Năm 2000, T. – con gái của nạn nhân đến trọ học đại học cùng khu với ông. Ba của T. là người khá cổ hủ, không muốn cho con học hành lên cao vì quan điểm “con gái học làm gì nhiều” nên bắt về lo chuyện chồng con, làm nông khỏi cần học cái chữ mà làm gì.

Dù ham học và muốn thoát cảnh nghèo nhưng vì hoàn cảnh T. đành chấp nhận. Ngày chuẩn bị thu dọn đồ về quê, T. qua chào cha Thung (ở xóm trọ ai cũng gọi ông Thung là cha Thung) rồi nước mắt lăn dài trên đôi gò má nhỏ. T. khóc vì muốn được tiếp tục theo học nhưng không thể cãi lời ba và cũng không thể tự lo cho bản thân khi thiếu tiền chu cấp từ phía gia đình.

 Thương T., ông đã bày ra kế: “Con về xin ba cho đi làm ăn xa vài năm kiếm tiền để về lấy chồng rồi tự đi học”. T. nghe lời nhưng còn băn khoăn không biết xoay xở ra sao, lấy đâu ra tiền đóng học, rồi tiền ăn, tiền ở, sinh hoạt hàng ngày...

Cha Thung lại trấn an: “Cha có tiền, cha lo được cho con mà”. T. không dám nhận lời vì nghĩ “chẳng có người dưng nào tốt với mình”. Và T. bỏ học thật nhưng chỉ sau một tháng T. lại tiếp tục tới trường...

Sng là cho đâu ch nhn riêng mình

Tiếp lời, vị thẩm phán nói: “Có lẽ nhiều người nghĩ không ai cho không ai cái gì, người dưng nước lã lại càng khó để hết lòng tốt với nhau nhưng cha Thung của T. đã làm được điều đó”.

Sau khi T. về, ông Thung đã về tận quê để gặp ba T. xin cho T. được đi học. Không lay chuyển được định kiến của ba T., ông Thung liền quyết âm thầm hỗ trợ cho T., tuy không nhiều nhưng đó là tất cả khoản tiền ông tiêu dè sẻn và kiếm được. Cảm kích trước tấm lòng của cha Thung, từ đó T. tiếp tục theo học và cố gắng học thật giỏi để không phụ lòng cha nuôi...

Một ngày nọ, T. đến trường, ông dúi vào tay cô bé một bọc tiền được gói ghém cẩn thận trong một mảnh vải. Toàn tiền lẻ, từng đồng, từng đồng được vuốt thẳng. Ông nói với T. đó là những đồng tiền từ tình thương người khác dành cho ông và ông muốn dùng nó vào những việc làm có ích, “con hãy cứ chi tiêu vào những việc cần, chỉ cần cố gắng học thật giỏi rồi kiếm một tấm chồng tử tế là cha nuôi đã mãn nguyện lắm rồi”.

Ba của T. ở quê không biết chuyện con tiếp tục theo học mà cứ nghĩ con gái đi làm xa kiếm tiền để chuẩn bị lấy chồng. Còn người mẹ thì biết rõ nhưng không dám nói và cũng chưa một lần đến để cảm ơn người dưng tốt bụng này, cũng như không thể giấu tiền dấm dúi cho T. như lẽ thường có thể làm. Và rồi lần gặp trớ trêu trên đã có thể khiến cha Thung – người cha nuôi tốt bụng cưu mang con mình bao năm qua chuẩn bị đứng trước bản án tù.

Kể tới đây, vị thẩm phán lôi trong hộc tủ ra một bức thư T. viết gửi ông. Bức thư thống thiết mong tòa đừng xử tội cha Thung. Trong thư T. kể: “Ngày cha Thung trộm tiền của mẹ là ngày con chuẩn bị về thăm nhà. Cha nói sẽ gửi tiền cho con lấy vé xe. Con nói không cần nhưng cha lo con thiếu tiền cha mới làm liều, tất cả cha đều nghĩ cho con, muốn con không phải lo nghĩ, phải khổ, còn bản chất cha Thung rất tốt bụng, thương người”.

Trong thư T. còn kể những ân tình cha Thung dành cho mình, chẳng hạn có lần T. viết thư cảm ơn cha và nói mang ơn cha suốt đời nhưng được cha giáo huấn: “Ở đời, chữ “nghĩa” lớn hơn chữ “ơn”, cha không tốt với con để mong được báo đáp, con hãy sống tốt để cha tự hào là được”. Dù tình cảnh đáng thương nhưng với hành vi vi phạm trên không thể không truy tố trách nhiệm hình sự với ông Thung.

Trước vành móng ngựa, bị cáo không hề nói vì muốn có tiền cho con ăn học mà một mực: “Vì tôi không dằn lòng nên nảy tham tà”. Sau khi xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ tòa tuyên phạt ông Thung chín tháng tù treo về tội Trộm cắp...

Vụ án khép lại. Hai ngày sau, phòng làm việc của vị thẩm phán có tiếng gõ cửa. Ông Thung và T. – lúc này là con nuôi ông, bước vào. Trong buổi trò chuyện hôm đó, ông Thung đã tự trách mình vì một phút nông nổi mà nổi lòng tham và làm trái với những lời mình từng dạy con “nghèo cho sạch...”.

Nhưng ông cũng kể cho vị thẩm phán một tin vui, con nuôi của ông đã xin được về dạy tại một trường miền núi, dù xa nhà, khó khăn, lương thấp nhưng sống bằng con chữ và ổn định. Ba của T. cũng đã biết chuyện và đến cảm ơn cha Thung. Ông mừng không phải vì một lời cảm ơn của người cha này mà mừng vì hóa giải định kiến của một người cổ hủ.

Câu cuối cùng trước khi rời phòng vị thẩm phán, ông Thung tâm sự: “Tôi sống dựa vào tình thương của người khác nên tôi đáp lại tình thương đó cho người cần nó”. Và câu nói của người đàn ông này, đến nay vị thẩm phán vẫn coi như một lẽ sống. Ở đời, sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình...

Theo Tố Như/Hôn nhân& Pháp luật