Dòng sự kiện:

Phẫu thuật thẩm mỹ: Những bí mật không phải ai cũng biết

Nói đến phẫu thuật thẩm mỹ, hầu như ai cũng nghĩ đến những thủ thuật đắt tiền, không cần thiết chỉ giành cho giới nhà giàu với mục đích thuần túy vì nhan sắc.

Tất nhiên, sự thật là phần lớn các thủ thuật hiện nay vẫn là sửa mũi và nâng ngực. Song những kỹ thuật được tiên phong bởi các bác sỹ phẫu thuật thẩm mỹ đã có một lịch sử lâu dài, và những bác sĩ trong chuyên nghành này đã phải cần cù phấn đấu chỉ để được các đồng nghiệp nhìn nhận công việc của họ một cách nghiêm túc.

Nâng ngực có một lịch sử dài hơn bạn tưởng

Ca phẫu thuật nâng ngực thành công đầu tiên có phần giống với phẫu thuật tạo hình, chứ không phải là thẩm mỹ, vì bệnh nhân trước đó đã có một khối u lớn và phải cắt bỏ một phần ngực trái.

Bác sĩ ngoại khoa người Đức Vincenz Czerny đã sử dụng u mỡ kích thước phù hợp lấy từ lưng bệnh nhân để tái tạo lại ngực cho cô, và có thể giả định rằng nỗ lực chỉ được thực hiện nhờ vật liệu sinh học có sẵn từ bệnh nhân.

Ca mổ được tiến hành vào năm 1895, và các bác sĩ phẫu thuật đã dành 70 năm tiếp theo để tìm ra loại vật liệu dùng cho việc nâng ngực thẩm mỹ.

Paraffin, miếng xốp thấm cồn, và sáp ong đều thất bại. Cuối cùng, vào đầu thập kỉ 60, một bác sĩ nội trú trẻ ở Houston tên là Frank Gerow đã phát minh ra việc nâng ngực bằng silicon sau khi vắt kiệt một túi đựng máu và thấy rằng nó rất giống với cấu trúc ngực của phụ nữ. Ca phẫu thuật thử nghiệm đầu tiên của ông được thực hiện trên chó và đã thành công.

Timmie Jean Lindsey, bệnh nhân thử nghiệm đầu tiên của ông, đã được đề nghị tình nguyện làm thủ thuật này sau khi đến khám về việc xóa săm và rất vui mừng với kết quả. Cho đến nay bà vẫn giữ những miếng “độn ngực” đầu tiên của mình như một minh chứng cho tính khả thi của phẫu thuật.

Xe hơi an toàn hơn nhờ … bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ

Cuộc tranh cãi về sự an toàn của xe hơi đã diễn ra một thời gian trước đó, từ đầu năm 1935 với bài báo trên tờ Readers’Digest với tiêu đề "-Và cái chết không báo trước." Tác giả Joseph C. Furnas chủ yếu công kích những tài xế lái ẩu, cố gắng thức tỉnh họ bằng cách nói rằng với những tài xế bất cẩn, thì thà là “bạn nhảy luôn ra khỏi cửa, ít nhất bạn sẽ không bị chết bởi những mảnh kim loại lấp lãnh và kính văng tung tóe trong xe. "

Tuy có vẻ như Furnas không nghĩ rằng việc tối ưu hóa sự an toàn của xe hơi sẽ giúp ích, nhưng một bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ ở Detroit tên là Claire Straith đã đi đến kết luận hợp logic này sau nhiều năm chuyên phẫu thuật tạo hình lại khuôn mặt cho những nạn nhân sống sót sau những vụ tai nạn xe hơi.

Sau khi Straith gửi một bức thư nghiêm túc cho Walter P. Chrysler, năm mẫu xe Chrysler khác nhau đã được giới thiệu vào năm 1937 với các tính năng được thiết kế có tính đến độ an toàn - lần đầu tiên trong ngành sản xuất ô tô. Các tính năng này bao gồm các nút cao su thay vì thép, tay nắm cửa tròn, và tay nắm lõm.

Mặc dù còn mất một thời gian để các khuyến nghị khác của Straith - như bảng đồng hồ và dây an toàn - được thực hiện, song nó không ngăn cản người bác sĩ này lắp đặt cả hai cho chiếc xe riêng của mình trước khi chúng trở thành tiêu chuẩn.

Bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ tham gia ca ghép tạng đầu tiên

Mặc dù hầu hết mọi người không nghĩ rằng việc ghép tạng có liên quan nhiều với phẫu thuật thẩm mỹ, nhưng thực ra chúng sử dụng nhiều kĩ thuật như nhau, chẳng hạn như tạo hình và nối lại các dây thần kinh và mô, cũng như đối phó với nguy cơ đào thải.

Trên thực tế, ca ghép tạng thành công đầu tiên – một ca mổ ghép thận - đã được thực hiện bởi bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ nổi tiếng Joseph E. Murray vào năm 1954.

BS. Murray đã được đánh giá cao trong sự nghiệp thúc đẩy hơn nữa việc điều trị các nạn nhân bỏng và những người bị biến dạng mặt. Tuy nhiên, ca mổ ghép tạng là một bước đột phá vô cùng lớn vào thời điểm đó, thậm chí không ai biết liệu có thể tiến hành một ca mổ như vậy hay không.

Một thập kỷ nghiên cứu và thử nghiệm của BS Murray đã không mang lại kết quả khả quan. Nhờ quả thận được người anh em sinh đôi của bệnh nhân hiến tặng, năm 1954 ca mổ đã thành công, mở ra cho ngành y khả năng thành công của việc ghép tạng.

Sau đó BS Murray đã trở thành chuyên gia quốc tế về ghép tạng và thải tạng ghép, ông thậm chí còn giúp phát triển thế hệ đầu tiên của thuốc ức chế miễn dịch trong những năm 1960.

Năm 1990, ông được trao giải Nobel Y học cho công trình tiên phong của mình. Ông là một trong số 9 bác sĩ phẫu thuật, và là bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ duy nhất, được nhận được giải thưởng này cho đến nay.

BS Warren Breidenbach, Chủ nhiệm khoa Phẫu thuật tạo hình và thẩm mỹ tại Đại học Arizona vào giữa năm 2016, đã có một sự nghiệp lâu dài và nổi tiếng.

Trọng tâm hiện nay của ông bao gồm việc thành lập một viện nghiên cứu về cấy ghép mô composite và thuốc ức chế miễn dịch. Ông được coi là chuyên gia hàng đầu thế giới về ghép tay. Năm 1999, ông là bác sĩ phẫu thuật đầu tiên trên thế giới thực hiện thành công ca mổ này.

Người nhận, Matthew Scott, bị mất bàn tay trong vụ tai nạn pháo hoa từ 14 năm trước ca mổ. Việc lên phương án phẫu thuật mất 3 năm.

Breidenbach đã phải đương đầu với sự săm soi của toàn bộ giới y khoa về các vấn đề đạo đức khi một lần nữa những câu hỏi nghiêm túc lại được đặt ra, như liệu ca mổ thậm chí có khả thi không.

Các nỗ lực trước đó – một vào năm 1964 khi các thuốc ức chế miễn dịch mới ra đời và một ngay trong năm trước - năm 1998 – đều dẫn đến hệ thống miễn dịch của bệnh nhân từ chối bàn tay được ghép.

Kể từ đó, đã có hơn 85 người được ghép bàn tay hoặc cánh tay trên toàn thế giới, bao gồm cả trẻ em, người bị cứt cụt chi, và nạn nhân của các vụ nổ. Một lần nữa, thủ thuật nào có thể không bao giờ trở thành hiện thực nếu không có tiên phong của các bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ.

Tính đến năm 2016, Breidenbach đã thực hiện nhiều ca mổ ghép tay hơn bất kỳ bác sĩ phẫu thuật nào khác và đã đào tạo đa số những người còn lại đủ trình độ để tiến hành thủ thuật này tại Mỹ.

Nguồn: Gia đình Việt Nam